LÒNG NHÂN ÁI Tin Mừng viết: “Này anh chị em, có ích gì chăng, khi một người bảo, tôi có đức tin, nhưng lại không làm gì cả. Đức tin như thế có cứu người đó được không?” Mat-thêu ghi: vì công lí nước trời, Con Người sẽ mở một trương mục và có ngày cũng sẽ kết toán sổ sách. Vì “Cái gì ngươi đã làm cho người anh em bé mọn nhất, thì chính là ngươi đã làm cho ta”. Vì đức tin không có việc làm là đức tin chết, nên Giáo Hội đã đưa ra bảy mối thương người, gồm: Câu đầu trích từ thư thánh Gia-cô-bê, thư mang nặng truyền thống ki-tô gốc Do-thái. Thánh Gia-cô-bê là giám mục thành Giê-ru-sa-lem. Trong lịch sử Giáo Hội, ngài là người đại biểu cho loại Ki-tô giáo chủ trương đức tin phải nhập thể vào đời sống, đức tin phải tạo nên hoa trái, phải thể hiện ra hành động. Câu thứ hai là của chính Tin Mừng. Câu này mô tả dụ ngôn cuộc phán xét, trong đó Chúa tự đồng hoá với người thiếu thốn và nói: “Các ngươi gặp người thiếu thốn là gặp chính tôi”. Đây là một tư tưởng luôn đốt lên những ngọn lửa mới trong lịch sử Giáo Hội. Nhận ra Đức Ki-tô trong con người, nhất là khi ta đứng trước những người bị khinh bỉ, những người đau khổ, những kẻ nghèo. Trong dụ ngôn, chính Chúa rốt cuộc nói tới nhiều hình thức thương người: “Tôi trần truồng, ông đã cho tôi mặc; tôi đau, bà đã giúp đỡ; tôi bị tù, chị đã tới thăm…” Như thế Ngài đã vẽ ra những loại người thiếu thốn, họ đại biểu cho Chúa trong thế giới. Ta hãy nhìn kĩ hơn vào một trong những mối kia: “Cho kẻ trần truồng áo mặc”. Với câu này, hẳn Chúa không ám chỉ việc quyên góp quần áo cũ? Câu đó hẳn nhiên mang nghĩa bao quát hơn. Việc quyên góp đồ cũ, nếu làm với thiện tâm, cũng mang ít nhiều giá trị; cũng không nên khinh thường những việc nhỏ nhặt. Nhưng ở đây không chỉ có thế. Một mặt, nó đề cập tới điều thực tế. Là người, ta không chỉ yêu trên nguyên tắc và thỉnh thoảng gởi cho tí tiền, nhưng phải mở mắt ra để thấy chỗ nào người khác cần đến mình trong cuộc sống. Và ta sẽ thấy là điều này thường không dễ, chẳng thoải mái. Hãy nhớ lại câu chuyện ông linh mục và các thầy tư tế gặp người bị trấn lột trên đường. Họ đã không dừng lại, có lẽ vì sợ bị lỡ cái hẹn quan trọng, hay sợ bị nguy hiểm vì đoạn đường đó heo hút. Lí do thì lúc nào cũng có.Trái lại, dụ ngôn toà án của Đức Giê-su, cũng như các mối thương người, nói lên điều rất cụ thể: Không những ta phải thương người một cách chung chung, mà còn phải giúp đỡ cụ thể những kẻ thiếu thốn mình gặp, cả lúc không thuận tiện, không có giờ hay không sẵn phương tiện. Ta phải nghĩ đến từng trường hợp riêng lẻ, chứ không phải chỉ có những chiến dịch lớn mà thôi. Đòi hỏi tình yêu nơi Ki-tô giáo và nơi cộng sản cũng khác nhau. Tình yêu cộng sản chỉ nhắm tới kế hoạch lớn, tới việc cải tổ cơ cấu và bỏ qua trường hợp cá thể. Dĩ nhiên cũng cần những kế hoạch lớn, nhưng không được bỏ qua việc bác ái cá nhân, là công tác rất quan trọng, và nhất là làm sao giúp cho những người đó có được những khả thể tốt hơn. Vì vậy trong Giáo Hội đã có những bệnh viện, những trường học cho người nghèo, và nhiều thứ khác nữa. Tắt lại, phải quan tâm tới cả hai: không bỏ sót người bên cạnh ta trong những chương trình lớn, cũng như phải làm sao thay đổi cơ cấu bất công và trợ giúp cụ thể cho những ai gọi là trần truồng cần áo mặc. Bên cạnh bảy mối thương thân xác còn có bảy mối thương linh hồn: Việc nhân ái không được đóng khung trong khía cạnh vật chất mà thôi, đó là điểm quan trọng. Nếu chỉ lo chuyện vật chất mà thôi thì thật quá ít. Vì vậy, trong viện trợ phát triển, càng ngày ta càng thấy rõ tầm quan trọng của việc giúp con người có được kiến thức và học vấn, để họ đủ khả năng tự giải quyết lấy chuyện của mình. Chỉ khi ta giúp cho trí tuệ, giúp cho con người toàn diện, lúc đó ta mới thực sự giúp. Vì thế, đưa Chúa đến cho con người lại càng là chuyện quan trọng. Giúp tạo nên những tiêu chuẩn luân lí quả là công tác nhân ái hàng đầu. Thử lấy ra một mối: “Mở dạy kẻ mê muội”. Tôi nghĩ, ít khi người được dạy bảo coi đó là hành vi nhân ái. Hãy nhìn vào thí dụ viện trợ phát triển ở châu Mĩ la-tinh. Ở đây, Giáo Hội cũng như các nhóm tả đều coi công tác chống mù chữ là yếu tố chính trong hoạt động của mình. Tại sao? Là vì bao lâu con người còn u minh, bấy lâu họ còn tiếp tục bị lệ thuộc. Họ không thể tự thân thoát ra được tình trạng có thể nói là nô lệ đó. Chỉ khi họ tiếp cận được với sản phẩm giáo dục, lúc đó họ mới có thể trở nên ngang hang, và lúc đó xã hội, đất nước họ mới thật sự phát triển. Và như vậy, việc dạy bảo kẻ u minh ở đây được người ta hiểu là phương cách giúp họ đi vào được thế giới trí tuệ, giúp họ có được chìa khoá để hiểu những gì đang chuyển động thế giới ngày nay. Cũng vậy, nếu ta nhìn lại các phong trào trước đây ở Âu châu, như việc mở trường dạy học cho kẻ nghèo ở Pháp của Jean la Salle*, ta thấy người nghèo, mà bao nhiêu thế hệ đã bị kìm giữ trong lệ thuộc, đã có được vận hội học hành thật lớn. Học là chìa khoá nền tảng mở tung các cánh cửa trí tuệ, là công tác sơ đẳng của nhân ái tinh thần. Dĩ nhiên với điều kiện không chỉ dạy cho người ta biết đọc mà thôi, mà việc đọc này cũng đưa họ vào một liên hệ tinh thần có ý nghĩa, có nghĩa là không phải dạy cho họ một ý thứchệ, nhưng cũng là mở ra cho họ con đường dẫn tới đức tin.
|